Áp xe sau họng là một bệnh không phổ biến nhưng có khả năng đe dọa tính mạng, chiếm tỷ lệ cao nhất trong bệnh lý các bệnh gây tử vong ở trẻ dưới 2 tuổi. Khi áp xe thành sau họng phát triển về kích thước, có thể dẫn đến tắc nghẽn đường hô hấp trên và ngạt rồi tử vong.
Áp xe thành sau họng chính là hóa mủ hạch Gillet ở khoang sau họng. Khoang sau họng kéo dài từ nền sọ đến trung thất sau và được bao bọc cân trước sống và cân họng. Khoang sau họng chứa các chuỗi hạch bạch huyết dẫn lưu qua vòm họng. Những chuỗi hạch bạch huyết này chỉ có ở trẻ nhỏ, và teo dần sau 8 tuổi.
Biểu hiện lâm sàng điển hình là ở trẻ dưới 8 tuổi, đặc biệt dưới 2 tuổi. Sau viêm VA khoảng 2 tuần xuất hiện:
– Sốt cao (thường trên 39 độ), môi khô lưỡi bẩn, mặt hốc hác, da xanh;
– Nuốt đau và tăng tiết nước bọt, nước bọt rất hội, trẻ nhỏ bỏ bú, quấy khóc;
– Thay đổi giọng nói, tiếng khóc: cảm giác như cổ họng bị tắc;
– Cứng hàm;
– Sưng cổ, hạch cổ;
– Đau ngực (lan rộng trung thất);
– Suy hô hấp (thở rít, thở nhanh, co rút).
Hình ảnh lâm sàng của áp xe thành sau họng.
Khám thấy:
+ Giai đoạn đầu: ban đỏ họng ở mức độ nhẹ đến trung bình và không ăn được đồ cứng;
+ Khi bệnh tiến triển, ban đỏ và sưng tấy ở họng sẽ ngày càng rõ hơn, không nuốt được nước bọt;
+ Cổ luôn có xu hướng gập lại (để giảm đau).
Lưu ý: thăm khám nhẹ nhàng, nên để người bệnh nằm nghiêng và phải do bác sĩ Tai Mũi Họng có kinh nghiệm, có sẵn máy hút dịch họng tránh vỡ sặc vào đường thở gây khó thở.
Cận lâm sàng
+ Công thức máu: số lượng bạch cầu lớn hơn 12.000 ở 91% số người bệnh.
+ Cấy máu: cả máu hiếu khí và kỵ khí.
+ Chụp X-quang cổ nghiêng thường được lựa chọn trong đánh giá ban đầu nghi ngờ áp xe sau họng, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Nên chụp X-quang cổ nghiêng khi hít vào với cổ được giữ ở tư thế duỗi bình thường.
Kết quả: thấy tăng độ dày của phần mềm thành sau họng, nếu trên 10 mm ở C6 cho thấy có ổ áp xe.
+ CT cổ có tiêm thuốc cản quang là phương pháp hình ảnh chính xác nhất để đánh giá bệnh nhân bị áp xe sau họng. Bác sĩ lâm sàng được đào tạo về quản lý đường thở khẩn cấp nên có mặt trong khi chụp CT. Bệnh nhân có thể cần phẫu thuật đường thở khẩn cấp nếu xảy ra tắc nghẽn đường hô hấp trên.
+ Siêu âm được ưa chuộng ở trẻ em hơn vì nó không liên quan đến bức xạ và có thể mang theo được. Với những người có kinh nghiệm, siêu âm có thể giúp xác định kích thước và vị trí của áp xe.
Xử trí
– Nhập viện ngay khi nghi ngờ áp xe thành sau họng.
– Nội khoa:
+ Kháng sinh tiêm tĩnh mạch, nên bao phủ các vi khuẩn vùng họng bao gồm cả các sinh vật kỵ khí.
+ Thường bắt đầu bằng thử nghiệm liệu pháp kháng sinh tiêm tĩnh mạch trong 24 – 48 giờ. Liệu pháp kháng sinh ban đầu nên bao gồm ampicillin-sulbactam (50 mg/kg mỗi 6 giờ) hoặc clindamycin (15 mg/kg mỗi 8 giờ).
+ Nếu bệnh nhân có biểu hiện không đáp ứng với liệu pháp kháng sinh ban đầu, nên dùng vancomycin hoặc linezolid.
+ Nên tiếp tục dùng kháng sinh đường tiêm cho đến khi bệnh nhân cải thiện lâm sàng và hết sốt trong 24 giờ.
+ Sau khi bệnh nhân có cải thiện lâm sàng và không sốt, có thể chuyển sang dùng kháng sinh đường uống. Amoxicillin-clavulanate (45 mg/kg mỗi 12 giờ) hoặc clindamycin (13 mg/kg mỗi 8 giờ) là các phác đồ uống được chấp nhận, trong 14 ngày.
– Ngoại khoa:
+ Những bệnh nhân có biểu hiện tổn thương đường thở nên trích rạch dẫn lưu sớm.
+ Không có bằng chứng cho thấy bệnh nhân có áp xe hơn 3cm2 có thể điều trị nội khoa đơn thuần.
Trích rạch áp xe thành sau họng.
– Tất cả bệnh nhân phải được theo dõi đường thở cẩn thận khi điều trị áp xe sau họng, đặc biệt là trong 24 – 48 giờ đầu điều trị.
Phòng bệnh
– Giữ vệ sinh răng miệng tốt.
– Điều trị và kiểm soát tốt các đợt viêm cấp của VA.
– Là bệnh cấp cứu, diễn biến nhanh nên cần hội chẩn chuyên gia ngay từ đầu.
– Dẫn lưu càng sớm càng tốt tránh nhiễm độc và nhiễm khuẩn huyết.
– Cân nhắc nạo VA sau khi điều trị áp xe thành sau họng ổn định trên 1 tháng.