TS.BS Phạm Tuấn Anh cho biết: Liệu pháp miễn dịch giúp kích hoạt hệ miễn dịch, tấn công các tế bào ung thư. Hiện nay có 2 nhóm điều trị miễn dịch. Nhóm thứ nhất sử dụng các thuốc đích để kích hoạt các tế bào miễn dịch của cơ thể có khả năng chống lại các khối u đó là các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, ức chế hoạt động của các thụ thể PDL1/PD1 hoặc CTLA4 như Pembrolizumab, Durvalumab, Atezolizumab, Tremelimumab. Hướng thứ hai là lấy các tế bào có chức năng miễn dịch ra khỏi cơ thể bệnh nhân, gắn các thụ thể có khả năng nhận biết tế bào ung thư và nhân lên, hay nói cách khác là “huấn luyện” các tế bào miễn dịch có khả năng “tìm và diệt” tế bào ung thư. Sau đó đưa các tế bào miễn dịch này trở lại cơ thể bệnh nhân. Điển hình của nhóm này là liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T được chỉ định trong u lympho và bệnh bạch cầu. Điều trị miễn dịch đã cải thiện đáng kể thời gian sống thêm toàn bộ cũng như trì hoãn thời gian bệnh tiến triển nhưng không chữa khỏi triệt để được ung thư giai đoạn muộn.
Một trường hợp tiêu biểu minh chứng hiệu quả của điều trị miễn dịch là bệnh nhân nam 75 tuổi cách đây 5 năm được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến kém biệt hoá của phổi phải giai đoạn II, được phẫu thuật cắt thuỳ dưới phổi phải, vét hạch và hoá trị bổ trợ 4 chu kì. Cách đây 3 năm bệnh nhân tái phát di căn màng phổi, được điều trị hoá trị kết hợp miễn dịch sau đó duy trì miễn dịch, giữ được bệnh ổn định đến thời điểm hiện tại.
TS.BS Phạm Tuấn Anh cho biết thêm: Điều trị miễn dịch là một trong những thành tựu mới nhất và lớn nhất trong điều trị ung thư. Điều trị miễn dịch giúp hoạt hoá hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư một cách hiệu quả hơn. Các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch giữ vai trò chủ đạo trong liệu pháp miễn dịch, là các kháng thể đơn dòng ngăn chặn sự kết hợp các dấu ấn đặc biệt của tế bào ung thư gắn vào điểm kiểm soát của tế bào miễn dịch, trên cơ sở đó tế bào miễn dịch được kích hoạt, nhận biết và tiêu diệt tế bào ung thư.
Song song với những hiệu quả đó, việc tăng cường hệ thống miễn dịch đã dẫn đến quá mẫn với một loạt các phản ứng đáp ứng viêm hệ thống, được gọi là các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch (irAE). Tỷ lệ được báo cáo của các biến cố bất lợi này qua các nghiên cứu dao động trong khoảng rất rộng, từ 15% đến 90% tuỳ loại độc tính, mức độ độc tính và không giống nhau giữa các thuốc miễn dịch và các bệnh ung thư khác nhau. Các biến cố bất lợi nặng dẫn đến ngưng điều trị hoặc tử vong thường rất thấp. Nhìn chung, hầu hết độc tính ở mức độ nhẹ và có thể kiểm soát được nếu bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ và điều trị thích hợp.
Ở Việt Nam, liệu pháp miễn dịch được áp dụng rộng rãi trong khoảng 5 năm trở lại đây. Hàng nghìn bệnh nhân được điều trị và hưởng lợi từ thành tựu này, kết hợp với các phương thức phẫu thuật, xạ trị, hoá trị… chữa khỏi ung thư giai đoạn sớm và kéo dài thời gian sống thêm bệnh giai đoạn di căn.
Hiệu quả của liệu pháp miễn dịch mang lại là rõ ràng, nhưng qua nghiên cứu và thực hành điều trị, không phải tất cả các bệnh nhân đều đáp ứng với thuốc miễn dịch, mà phụ thuộc vào các dấu ấn sinh học. Hiện nay, dấu ấn sinh học được sử dụng nhiều nhất trong thực hành lâm sàng là chỉ số PD-L1 trên tế bào u và tế bào miễn dịch bị xâm nhiễm. Chỉ số này được xác định bằng hóa mô miễn dịch trên mẫu mô u. Mỗi loại ung thư sẽ có ngưỡng PD-L1 riêng biệt, giúp quyết định việc sử dụng liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch trên từng bệnh nhân. Ngoài ra cũng có một số chỉ dấu sinh học khác đang được nghiên cứu và ứng dụng như MSI ( Microsatellite instability ), TMB (tumor mutation burden).
Theo TS.BS Phạm Tuấn Anh, giá thành và chi phí của điều trị miễn dịch là khá cao so với thu nhập nhiều người bệnh. Để nhiều bệnh nhân được tiếp cận các hãng dược cần giảm giá thành, các cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách bảo hiểm y tế phù hợp cũng như kêu gọi sự chung tay của xã hội, cộng đồng xây dựng các chương trình hỗ trợ bệnh nhân.
Cũng theo TS.BS Phạm Tuấn Anh, tình hình và gánh nặng ung thư ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng gia tăng như thực trạng chung của thế giới. Bệnh gặp ở mọi giới, lứa tuổi, tầng lớp xã hội, mọi khu vực địa lý và mọi ngành nghề khác nhau. Cũng theo số liệu của IARC, tại Việt Nam năm 2020 ước tính có 182.563 ca mắc mới, 122.690 ca tử vong do ung thư và hiện trên toàn quốc có 353.826 bệnh nhân đang chung sống với bệnh ung thư. Năm loại ung thư phổ biến nhất ở cả hai giới lần lượt là ung thư gan (chiếm 14,5%), ung thư phổi ( chiếm 14,4%), ung thư vú ( chiếm 11,8%), ung thư dạ dày ( chiếm 9,8%), và ung thư đại trực tràng (chiếm 9%).
Trong một thập kỉ trở lại đây, lĩnh vực ung thư có nhiều tiến bộ vượt bậc trong chẩn đoán, điều trị, cải thiện rõ rệt thời gian sống thêm và chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư. Trong ngoại khoa là các can thiệp xâm lấn tối thiểu nổi bật là phẫu thuật nội soi Robot. Thành tựu trong xạ trị là các kỹ thuật xạ trị chính xác, điều biến liều xạ theo hình dạng khối u và nhịp chuyển động theo thời gian. Trong lĩnh vực nội khoa ung thư, với hiểu biết về sinh học phân tử khối u cũng như nhiều thuốc mới ra đời, điều trị ung thư không còn đơn giản dựa trên giai đoan và thể mô học mà dựa trên hệ gen của mỗi bệnh nhân và đặc tính sinh học phân tử khối u. Điều trị đích và miễn dịch là những thành tựu nổi bật nhất trong những năm vừa qua. Hướng nghiên cứu trong tương lai là kết hợp các liệu pháp miễn dịch khác nhau, hay sử dụng liệu pháp miễn dịch kết hợp với các phương pháp điều trị đích cũng như nghiên cứu ứng dụng điều trị miễn dịch ở các bệnh nhân giai đoạn sớm.