Theo chia sẻ của PGS.TS Phạm Thị Bích Đào, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, người chăm trẻ có thể phát hiện sớm các bệnh lý của tai mũi họng qua một số biểu hiện sau:
Ngạt tắc mũi
Bình thường, trẻ thở bằng mũi một cách chậm rãi, đều đặn, không có tiếng kêu và miệng thì ngậm lại. Nếu chúng ta bịt bớt một bên mũi trẻ vẫn tiếp tục thở một cách dễ dàng.
– Trong trường hợp mũi bị tắc, trẻ thở khó khăn và có tiếng kêu. Bịt một bên mũi, trẻ sẽ bị ngạt.
– Muốn biết mũi có bị ngạt không ta có thể bịt một bên mũi và đặt lưng bàn tay vào sát lỗ mũi bên kia để cảm giác được luồng gió đi qua. Chúng ta kiểm tra như vậy với từng lỗ mũi một.
– Trẻ phải thở bằng miệng nên họng khô, rát. Chất nhầy của mũi chảy xuống họng làm cho trẻ vướng họng hay ho và hay bị trớ.
– Tiếng nói không được rõ các phụ âm M, N (M đọc thành B và N đọc thành Đ), trẻ nói giọng đặc biệt gọi là giọng mũi tắc.
– Ngạt tắc mũi cũng hay gây ra tắc vòi tai nên trẻ có thể bị nghễng ngãng và ù tai, gọi trẻ lúc nghe được lúc không, học sẽ sút kém. Tiếng thở của trẻ trở nên nặng, ban đêm ngáy to, thỉnh thoảng có những cơn ngạt thở và ho do co thắt thanh quản. Nguyên nhân của sự co thắt này là phản xạ bị kích thích bởi nước bọt tràn vào thanh quản. Hiện tượng này thường xảy ra ở trẻ bị viêm V.A và viêm thanh quản.
– Ở hài nhi, ngạt tắc mũi làm trẻ bú khó khăn, bú không được dài hơi như trước vì khi bú trẻ không thở được bằng miệng nữa nên cứ một lúc lại phải dừng, há mồm thở để lấy thêm oxy rồi bú tiếp, chính điều này làm cho trẻ dễ bị sặc.
– Một số trẻ lớn có thể hỏi để phát hiện được thêm triệu chứng mất ngửi khi ngạt tắc mũi.
– Một số trường hợp trẻ bị viêm mắt tái phát nhiều lần vì viêm nhiễm từ mũi đi lên, nếu điều trị mắt đơn thuần sẽ không giải quyết được triệt để (mắt có ống lệ tỵ thông xuống mũi), những trẻ này phải khám thêm chuyên khoa tai mũi họng.
– Những trẻ bị tắc mũi đều bị thiếu không khí, do đó trẻ không được linh hoạt. Ban đêm hay có những cơn ác mộng làm cho trẻ khóc thét. Trẻ lớn hay bị nhức đầu và không tập trung tư tưởng khi học tập.
Chảy mũi
Phát hiện dấu hiệu chảy mũi đôi khi cũng khó đối với ông bà, bố mẹ vì:
– Nếu chảy mũi thò lò ra cửa mũi trước, bố mẹ rất dễ phát hiện nên trong trường hợp này ít khi trẻ bị các biến chứng của viêm mũi.
– Thông thường họ không phát hiện được khi nước mũi chảy ra phía sau rồi rơi xuống họng. Những trường hợp này xảy ra khi hốc mũi bị phù nề nhiều cản trở chảy ra trước, hoặc khi bị viêm hệ thống xoang sau. Lúc đó trẻ có cảm giác vướng họng hay phải ho, khạc đờm hoặc buồn nôn hay nôn.
Biểu hiện về ngửi
Rối loạn ngửi ở trẻ nhỏ rất khó phát hiện do trẻ không hợp tác. Chủ yếu ông bà, bố mẹ thấy trẻ kém ăn dần. Nguyên nhân do trẻ không ngửi thấy vị thơm từ thức ăn kích thích trung tâm thèm ăn đồng thời giảm xuất tiết nước bọt – một chất để giúp quá trình tiêu hóa thức ăn. Với những trẻ này nên khám kiểm tra mũi họng để xác định bệnh.
Một số biểu hiện thay đổi tiếng khóc, tiếng nói:
– Tiếng nói, tiếng khóc của trẻ đục như bịt mồm, thường là viêm amiđan.
– Tiếng nói, tiếng khóc trẻ thường ồ ề như tiếng ễnh ương trong bệnh lý của viêm thanh quản.
– Trẻ có tiếng rít như mèo hen trong mềm sụn thanh thiệt bẩm sinh do thiếu calci.
Hội chứng doãng rộng họng
Hội chứng này ít gặp nên bố mẹ thường không biết là bệnh gì:
– Trẻ có những cơn ho như ho gà do lượng không khí đi qua họng quá nhiều, lại chưa được lọc sạch và điều chỉnh về nhiệt độ nên thường gây ra kích thích thanh quản, khí quản.
– Trẻ nói giọng “mũi hở”, không phát âm được âm k, gh…
– Mỗi lần nuốt vội thì nước tràn lên mũi do màn hầu đóng không kín.
– Trẻ thường hay phải nuốt chậm. Nguyên nhân của bệnh là do teo đét niêm mạc mũi họng hoặc trong một số bệnh bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch…
Một số biểu hiện bệnh về tai
– Đau tai.
– Trẻ biết nói sẽ tự kêu đau sâu trong tai, được mô tả đau theo tiếng mạch đập, đau lan xuống hàm dưới hoặc lên thái dương.
– Trẻ chưa biết nói thường hay dụi dụi tai bên đau vào gối hay vào vai người đang bế rồi khóc thét vì đau.
– Chảy tai xuất hiện kèm theo những đợt viêm mũi họng cấp thường là mủ của viêm tai giữa cấp giai đoạn đã vỡ mủ mà không phải ráy.
– Nghe kém: làm trẻ khó tập trung trong khi học, nhiều khi gọi từ phía sau trẻ không nghe thấy. Trẻ bị nói ngọng khó sửa vì không nghe được một số âm trầm trong viêm tai giữa. Hoặc trẻ bị điếc câm do không nghe được. Bố mẹ ông bà thấy trẻ không nói được như các trẻ cùng lứa tuổi. Khi phát hiện các dấu hiệu bất thường trên, ông bà, bố mẹ cần đưa trẻ đi khám ngay ở các trung tâm tai mũi họng để phát hiện và điều trị bệnh kịp thời.
Khi nào sử dụng kháng sinh cho trẻ?
Đó là băn khoăn của các bậc cha mẹ khi trẻ bị viêm mũi họng để tránh tình trạng kháng thuốc cũng như nâng cao khả năng miễn dịch cho trẻ, tránh những tổn thương gan thận có thể xảy ra khi dùng kháng sinh.
Trẻ sơ sinh sau 6 tháng hay bị các bệnh lý về tai mũi họng do hết lượng miễn dịch của mẹ truyền cho khi sinh. Những bệnh lý mà trẻ mắc phải 80% là do virus nên thường chỉ cần dùng các thuốc chữa triệu chứng như hạ sốt, giảm ho nhóm long đờm, chống ngạt tắc mũi… để cơ thể trẻ có khả năng tự sản sinh ra kháng thể chống lại các bệnh lý này. Tuy nhiên, nếu điều trị các triệu chứng này không đúng như dùng thuốc giảm ho loại ức chế trung tâm hô hấp sẽ làm mất khả năng bảo vệ phổi của trẻ qua phản xạ ho tống dịch ra ngoài, dẫn đến các biến chứng như viêm phế quản, viêm phổi. Cần phải theo dõi cẩn thận nếu thấy xuất hiện các triệu chứng biểu hiện của bội nhiễm vi khuẩn như nước mũi vàng xanh, hơi thở hôi… phải dùng kháng sinh kịp thời.
Hậu quả mà những trẻ dùng kháng sinh phải hứng chịu là cơ thể mất chức năng đề kháng, phụ thuộc vào thuốc mỗi khi bị bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, sức kháng thuốc của vi khuẩn trong cơ thể trẻ càng ngày càng tăng đến khi không còn đáp ứng với bất kỳ nhóm kháng sinh nào. Đây là những trường hợp nan giải cho các bác sĩ điều trị.
Cách phòng tránh các bệnh tai mũi họng và biến chứng của bệnh
Viêm mũi họng có thể phòng ngừa được bằng cách:
– Đeo khẩu trang cho trẻ mỗi khi ra đường vì môi trường Việt Nam hiện tại bị ô nhiễm nặng nề từ bụi xây dựng, xăng, hóa chất…
– Hạn chế đưa trẻ đến những chỗ đông người vì dễ làm cho trẻ bị lây nhiễm khi cơ thể chưa đủ sức đề kháng.
– Giữ ấm vùng cổ, ngực và bụng cho trẻ khi trời lạnh.
– Tránh để trẻ ở những nơi có gió lùa, hạn chế biến chứng của viêm mũi họng.
– Điều trị sớm mỗi khi trẻ xuất hiện các triệu chứng của mũi họng.
– Điều trị tốt các ổ viêm nhiễm ở mũi họng, răng miệng.
– Điều trị đúng và triệt để các bệnh viêm đường hô hấp, hội chứng trào ngược dạ dày thực quản.
– Nâng cao thể trạng, tăng cường sức chống đỡ của niêm mạc mũi họng.
– Biết cách nhỏ mũi cho trẻ, hướng dẫn đúng cho trẻ cách xì mũi để không đẩy mủ và vi trùng lên tai giữa hoặc vào xoang.
Bệnh lý tai mũi họng tưởng như đơn giản những cũng có khả năng gây tử vong bởi các biến chứng như viêm màng não do tai, áp xe não do tai, viêm phổi nặng, bít lấp đường thở do dị vật, các nhiễm trùng trung thất gây ra bởi dị vật thực quản, biến chứng viêm cầu thận cấp, thấp tim…