Rối loạn lo âu lan tỏa là một trong những rối loạn phổ biến gặp ở chăm sóc sức khỏe ban đầu và trong các đơn vị khám cấp cứu. Tỷ lệ rối loạn lo âu lan tỏa khác nhau ở các nước. Tỷ lệ mắc cả đời rối loạn này ở các nước phát triển khoảng 5% dân số, ở các nước đang hoặc kém phát triển chiếm từ 1,5-3% dân số.
Nguyên nhân sinh bệnh: Có sự kết hợp giữa yếu tố di truyền, các yếu tố môi trường như các trải nghiệm bất lợi thời thơ âu, các bệnh lý cơ thể kết hợp (tiểu đường), vấn đề sử dụng chất như rượu và chất gây nghiện khác, các tác động của sang chấn tâm lý, stress trong cuộc sống góp phần vào khởi phát, diễn biến quá trình và kéo dài dai dẳng rối loạn lo âu lan tỏa trong suốt cuộc đời.
Các yếu tố nguy cơ
Tuổi: hay gặp lứa tuổi 30-54 và 45-64.
Giới: nữ giới có nguy cơ cao mắc rối loạn lo âu lan tỏa hơn 2 lần so với nam giới.
Tình trạng hôn nhân: ly hôn hoặc góa bụa.
Tình trạng kinh tế: nguồn lực kinh tế thấp, ít sự hỗ trợ.
Hút thuốc lá thời thanh thiếu niên.
Các sang chấn, sự kiện gây stress trong thời kỳ thơ ấu.
Một số nghiên cứu chỉ ra nét tính cách, chăm sóc của cha mẹ như bỏ bê hoặc quá bảo vệ con họ cũng liên quan đến sự khởi phát rối loạn lo âu lan tỏa ở trẻ em.
Nhân cách: cá nhân có nét tính cách né tránh, phụ thuộc, nhân cách yếu đuối hay lo lắng, sống nội tâm, khép kín…
Tiền sử gia đình có bố/ mẹ mắc rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn trầm cảm… tăng nguy cơ mắc rối loạn lo âu lan tỏa ở trẻ em.
Các dấu hiệu
– Triệu chứng lo âu: Trạng thái lo âu, sợ hãi (lo lắng về bất hạnh trong tương lai, cảm giác “dễ cáu”, khó tập trung…), căng thẳng, cáu kỉnh, không thể thư giãn, đứng ngồi không yên, đau căng đầu. Trạng thái này có hoặc không có liên quan rõ rệt với sang chấn tâm lý, các rối loạn không dần mất đi khi sang chấn tâm lý không còn.
– Các triệu chứng kích thích thần kinh tự trị: đây là các triệu chứng không thể thiếu, đặc trưng trong rối loạn lo âu. Thường biểu hiện các triệu chứng hồi hộp, tim đập mạnh, nhịp tim nhanh, vã mồ hôi, run chân tay, khô miệng…
Ngoài ra còn có thể biểu hiện bằng các triệu chứng sau:
Các triệu chứng liên quan đến vùng ngực và bụng: Khó thở; Cảm giác nghẹn; Đau hoặc khó chịu ở ngực; Buồn nôn hoặc khó chịu ở bụng (ví dụ: sôi bụng).
Các triệu chứng liên quan đến trạng thái tâm thần: Chóng mặt, không vững, ngất xỉu hoặc choáng váng; Cảm giác mọi đồ vật không thật (tri giác sai thực tại) hoặc cảm giác bản thân ở rất xa hoặc “không thực sự ở đây” (giải thể nhân cách); Sợ mất kiềm chế, “hoá điên” hoặc ngất xỉu; Sợ bị chết.
Các triệu chứng toàn thân: Các cơn đỏ mặt hoặc ớn lạnh; Tê cóng hoặc cảm giác kim châm…
Các triệu chứng trên kéo dài nhiều tuần, nhiều tháng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc, học tập, các tương tác xã hội, hoạt động sống hàng ngày.
Chuyên khoa can thiệp: Khi có dấu hiệu trên nên đi khám chuyên khoa tâm thần để được thăm khám đánh giá và can thiệp kịp thời.
Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy giảm về sức khỏe thể chất (tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, nội tiết…), ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội nghề nghiệp, tăng nguy cơ lạm dụng rượu và các thuốc khác vì bệnh nhân thường tự dùng để giảm các triệu chứng; Tăng nguy cơ có ý tưởng tự sát lên 2,32 lần, và toan tự sát lên 3,64 lần.
Cách phòng ngừa
Duy trì hoạt động thể chất, phát triển thói quen tập thể dục đều đặn hàng ngày tốt cho cả sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tâm thần.
Tránh rượu và các chất kích thích cà phê, thuốc lá, chất gây nghiện khác.
Quản lý stress và có các phương pháp thư giãn: yoga, thiền định…
Tạo thói quen đi ngủ và thức giấc đúng giờ, có đủ số lượng và chất lượng giấc ngủ.
Chế độ ăn lành mạnh, đủ chất dinh dưỡng.
Tham gia các hoạt động xã hội lành mạnh.
Khi có các dấu hiệu nghi ngờ rối loạn lo âu nên tư vấn chuyên khoa sớm, tuân thủ điều trị.